Đầu To Bằng Cái Bồ
Chuyện kể rằng lúc Quỳnh còn nhỏ, mới bảy tám tuổi, Quỳnh đã tỏ ra
thông minh đỉnh ngộ nhưng cũng là một đứa trẻ chúa nghịch. Hồi ấy bọn
trẻ thường chơi trò xước xách, lấy tàu chuối làm cờ, lá sen làm lọng.
Trong trò chơi, Quỳnh bao giờ cũng lấn lướt.
Một đêm mùa thu, trăng tháng tám sáng vằng vặc, đang chơi với đám trẻ ở sân nhà, Quỳnh bảo:
- Chúng bay làm kiệu cho tao ngồi, rồi tao đưa đi xem một người mà cái đầu to bằng cái bồ!
Lũ trẻ tưởng thật, liền tranh nhau làm kiệu rước Quỳnh đi vòng
vòng quanh sân, mệt thở muốn đứt hơi. Xong, chúng nhất định bắt Quỳnh
phải giữ lời hứa. Lúc ấy trăng đã mờ, Quỳnh bảo:
- Tụi bây đứng đợi cả ở đây, tôi đi đốt lửa soi cho mà xem!
Bọn trẻ nhỏ hơi sợ, không dám ở lại, chỉ những đứa lớn hơn, bạo
dạn đứng chờ. Quỳnh lấy lửa thắp đèn xong đâu đấy, rồi thò đầu che ngọn
đèn, bảo:
- Kìa, trông trên vách kìa. Ông to đầu đã ra đấy!
Anh nào cũng nhìn nhớn nhơ nhớn nhác, thấy bóng đầu Quỳnh ở vách
to bằng cái bồ thật. Lũ trẻ biết Quỳnh xỏ, quay ra bắt Quỳnh làm kiệu
đền, Quỳnh chạy vào buồng đóng cửa lại, kêu ầm lên. Ông bố tưởng là trẻ
đánh, cầm roi chạy ra, lũ trẻ chạy tán loạn.
Đất Nứt Con Bọ Hung
Từ thuở bé, ngoài tính nghịch ngợm, hiếu động, Quỳnh còn tỏ ra
thông minh xuất chúng khi học rất giỏi và đối đáp hay, nhất là khi ứng
khẩu.
Trong làng cậu bé Quỳnh có một người hay chữ nhưng tính tình kiêu
ngạo, đi đâu cũng khoe khoang, tên gọi là ông Tú Cát. Tất nhiên, từ nhỏ
Quỳnh đã ghét những người có bản tính như vậy. Một hôm, Quỳnh đang đứng
xem đàn lợn ăn cám thì Tú Cát đi qua. Đã được nghe người ta đồn đãi về
thần đồng này, Tú Cát không ưa gì Quỳnh, ông ta ra vẻ kẻ cả gọi Quỳnh
đến bảo:
- Ta nghe thiên hạ đồn mày là đứa thông minh, ứng đáp rất giỏi.
Bây giờ ta ra cho mày một vế đối, nếu mà không đối được thì sẽ biết tay.
Nhất định ta sẽ đánh đòn cho chừa các tật láo, nghe chưa!
Nói xong, không đợi Quỳnh thưa lại, Tú Cát liền gật gù đọc:
- "Lợn cấn ăn cám tốn."
Đây là một câu đối rất hắc búa bởi "Cấn" và "Cám" vừa chỉ lợn và
thức ăn của lợn, lại vừa là hai quẻ trong kinh Dịch, người có học nhiều
còn thấy khó. Thế nhưng, không nao núng, Quỳnh đọc lại ngay:
- "Chó khônss chớ cắn càn."
Quả là một vế đối vừa chỉnh vừa có ý xỏ xiên. "Khôn" và "Càn" cũng
là hai quẻ trong kinh Dịch, Quỳnh lại còn ngầm ý chưởi Tú Cát là đừng có
mà rắc rối. Bị thằng nhỏ hơn mình chơi lại một đòn đau, Tú Cát tức lắm,
hầm hầm bảo:
- Được để coi mầy còn thông minh đến cỡ nào. Tao còn một vế nữa, phải đối ngay thì tao phục!
Nói xong Tú Cát đọc ngay:
- "Trời sinh ông Tú Cát!"
Vế vừa ra mang tính cách ngạo nghễ, phách lối. Nào ngờ, Quỳnh chỉ
ngay xuống đất, dưới lớp phân heo đùn lên những ụ nhỏ mà đáp:
- "Đất nứt con bọ hung!"
Đến nước này thì dù tức đến hộc máu mồm, Tú Cát cũng đành cút thẳng.
Chuyện Dê Đực Chửa
Tiếng tăm về một thần đồng nhanh chóng được truyền tụng khắp nơi,
ngày càng lan rộng và đến tận kinh đô. Nhà vua muốn biết hư thực ra sao,
nhưng là người chuộng nhân tài, sau khi suy nghĩ, vua bèn ban lệnh: Cả
phủ Thanh Hóa, mỗi làng phải đem nộp một con dê đực đang chửa. Sau hai
tháng, nếu làng nào không có sẽ bị trị tội. Cái lệnh chéo ngoe ấy tất
nhiên làm dân chúng phủ Thanh Hóa shốt hoảng sợ hãi. Cả làng Quỳnh ở, ai
cũng nhớn nhác lo âu. Tìm đâu ra dê đực chửa? Mà từ xưa đến giờ đã nghe
ai nói cái chuyện lạ lùng ấy đâu! Thế nhưng, khi biết chuyện đó, Quỳnh
nói với bố:
- Chuyện gì chớ chuyện này xin bố đừng lo. Bố cứ bảo dân làng
chuẩn bị cho con một trăm quan tiền và gạo ăn đường, con sẽ kiếm được dê
đực chửa cho làng. Nghe Quỳnh nói vậy, ông bố không tin, nhưng cũng
thưa lại vơi dân làng. Người tin kẻ nghi nhưng không còn có cách nào
khác, mọi người đành làm theo yêu cầu của Quỳnh. Sáng hôm sau, hai cha
con Quỳnh lên đường. Họ đến kinh đô khi nhà vua có việc đi qua cửa Đông.
Quỳnh nép xuống cống sát vệ đường chờ. Khi xa giá nhà vua đến gần,
Quỳnh khóc rống lên. Nghe tiếng khóc có vẻ lạ, vua sai lính lôi đứa trẻ
đang khóc lên hỏi nguyên do. Quỳnh vờ như không biết đấy là vua, càng
gào to, kể lể:
- Mẹ tôi đã chết mấy năm nay, tôi nói mãi mà bố tôi không chịu đẻ em bé cho tôi bế...
Vua nghe nói câu ấy, bật cười bảo rằng:
- Ôi chao quả là một thằng bé đần độn. Ba mày là đàn ông mà đẻ làm sao được?
Chỉ đợi cho vua nói vậy, Quỳnh liền nín ngay, rồi đứng chắp hai tay lại, nói thật trang nghiêm:
- Thưa ông, vậy mà nhà vua bắt dân làng tôi phải nộp dê đực chửa!
Nghe nói vậy, nhà vua giật mình, biết ngay đây là đứa bé thần đồng mà bấy lâu mình vẫn nghe đồn.
Chuyện kể rằng lúc Quỳnh còn nhỏ, mới bảy tám tuổi, Quỳnh đã tỏ ra
thông minh đỉnh ngộ nhưng cũng là một đứa trẻ chúa nghịch. Hồi ấy bọn
trẻ thường chơi trò xước xách, lấy tàu chuối làm cờ, lá sen làm lọng.
Trong trò chơi, Quỳnh bao giờ cũng lấn lướt.
Một đêm mùa thu, trăng tháng tám sáng vằng vặc, đang chơi với đám trẻ ở sân nhà, Quỳnh bảo:
- Chúng bay làm kiệu cho tao ngồi, rồi tao đưa đi xem một người mà cái đầu to bằng cái bồ!
Lũ trẻ tưởng thật, liền tranh nhau làm kiệu rước Quỳnh đi vòng
vòng quanh sân, mệt thở muốn đứt hơi. Xong, chúng nhất định bắt Quỳnh
phải giữ lời hứa. Lúc ấy trăng đã mờ, Quỳnh bảo:
- Tụi bây đứng đợi cả ở đây, tôi đi đốt lửa soi cho mà xem!
Bọn trẻ nhỏ hơi sợ, không dám ở lại, chỉ những đứa lớn hơn, bạo
dạn đứng chờ. Quỳnh lấy lửa thắp đèn xong đâu đấy, rồi thò đầu che ngọn
đèn, bảo:
- Kìa, trông trên vách kìa. Ông to đầu đã ra đấy!
Anh nào cũng nhìn nhớn nhơ nhớn nhác, thấy bóng đầu Quỳnh ở vách
to bằng cái bồ thật. Lũ trẻ biết Quỳnh xỏ, quay ra bắt Quỳnh làm kiệu
đền, Quỳnh chạy vào buồng đóng cửa lại, kêu ầm lên. Ông bố tưởng là trẻ
đánh, cầm roi chạy ra, lũ trẻ chạy tán loạn.
Đất Nứt Con Bọ Hung
Từ thuở bé, ngoài tính nghịch ngợm, hiếu động, Quỳnh còn tỏ ra
thông minh xuất chúng khi học rất giỏi và đối đáp hay, nhất là khi ứng
khẩu.
Trong làng cậu bé Quỳnh có một người hay chữ nhưng tính tình kiêu
ngạo, đi đâu cũng khoe khoang, tên gọi là ông Tú Cát. Tất nhiên, từ nhỏ
Quỳnh đã ghét những người có bản tính như vậy. Một hôm, Quỳnh đang đứng
xem đàn lợn ăn cám thì Tú Cát đi qua. Đã được nghe người ta đồn đãi về
thần đồng này, Tú Cát không ưa gì Quỳnh, ông ta ra vẻ kẻ cả gọi Quỳnh
đến bảo:
- Ta nghe thiên hạ đồn mày là đứa thông minh, ứng đáp rất giỏi.
Bây giờ ta ra cho mày một vế đối, nếu mà không đối được thì sẽ biết tay.
Nhất định ta sẽ đánh đòn cho chừa các tật láo, nghe chưa!
Nói xong, không đợi Quỳnh thưa lại, Tú Cát liền gật gù đọc:
- "Lợn cấn ăn cám tốn."
Đây là một câu đối rất hắc búa bởi "Cấn" và "Cám" vừa chỉ lợn và
thức ăn của lợn, lại vừa là hai quẻ trong kinh Dịch, người có học nhiều
còn thấy khó. Thế nhưng, không nao núng, Quỳnh đọc lại ngay:
- "Chó khônss chớ cắn càn."
Quả là một vế đối vừa chỉnh vừa có ý xỏ xiên. "Khôn" và "Càn" cũng
là hai quẻ trong kinh Dịch, Quỳnh lại còn ngầm ý chưởi Tú Cát là đừng có
mà rắc rối. Bị thằng nhỏ hơn mình chơi lại một đòn đau, Tú Cát tức lắm,
hầm hầm bảo:
- Được để coi mầy còn thông minh đến cỡ nào. Tao còn một vế nữa, phải đối ngay thì tao phục!
Nói xong Tú Cát đọc ngay:
- "Trời sinh ông Tú Cát!"
Vế vừa ra mang tính cách ngạo nghễ, phách lối. Nào ngờ, Quỳnh chỉ
ngay xuống đất, dưới lớp phân heo đùn lên những ụ nhỏ mà đáp:
- "Đất nứt con bọ hung!"
Đến nước này thì dù tức đến hộc máu mồm, Tú Cát cũng đành cút thẳng.
Chuyện Dê Đực Chửa
Tiếng tăm về một thần đồng nhanh chóng được truyền tụng khắp nơi,
ngày càng lan rộng và đến tận kinh đô. Nhà vua muốn biết hư thực ra sao,
nhưng là người chuộng nhân tài, sau khi suy nghĩ, vua bèn ban lệnh: Cả
phủ Thanh Hóa, mỗi làng phải đem nộp một con dê đực đang chửa. Sau hai
tháng, nếu làng nào không có sẽ bị trị tội. Cái lệnh chéo ngoe ấy tất
nhiên làm dân chúng phủ Thanh Hóa shốt hoảng sợ hãi. Cả làng Quỳnh ở, ai
cũng nhớn nhác lo âu. Tìm đâu ra dê đực chửa? Mà từ xưa đến giờ đã nghe
ai nói cái chuyện lạ lùng ấy đâu! Thế nhưng, khi biết chuyện đó, Quỳnh
nói với bố:
- Chuyện gì chớ chuyện này xin bố đừng lo. Bố cứ bảo dân làng
chuẩn bị cho con một trăm quan tiền và gạo ăn đường, con sẽ kiếm được dê
đực chửa cho làng. Nghe Quỳnh nói vậy, ông bố không tin, nhưng cũng
thưa lại vơi dân làng. Người tin kẻ nghi nhưng không còn có cách nào
khác, mọi người đành làm theo yêu cầu của Quỳnh. Sáng hôm sau, hai cha
con Quỳnh lên đường. Họ đến kinh đô khi nhà vua có việc đi qua cửa Đông.
Quỳnh nép xuống cống sát vệ đường chờ. Khi xa giá nhà vua đến gần,
Quỳnh khóc rống lên. Nghe tiếng khóc có vẻ lạ, vua sai lính lôi đứa trẻ
đang khóc lên hỏi nguyên do. Quỳnh vờ như không biết đấy là vua, càng
gào to, kể lể:
- Mẹ tôi đã chết mấy năm nay, tôi nói mãi mà bố tôi không chịu đẻ em bé cho tôi bế...
Vua nghe nói câu ấy, bật cười bảo rằng:
- Ôi chao quả là một thằng bé đần độn. Ba mày là đàn ông mà đẻ làm sao được?
Chỉ đợi cho vua nói vậy, Quỳnh liền nín ngay, rồi đứng chắp hai tay lại, nói thật trang nghiêm:
- Thưa ông, vậy mà nhà vua bắt dân làng tôi phải nộp dê đực chửa!
Nghe nói vậy, nhà vua giật mình, biết ngay đây là đứa bé thần đồng mà bấy lâu mình vẫn nghe đồn.